( 1 ) Vì đ tránh sự khó dễ của người Pháp, Đức Thầy đã có lần đổi lại là :
Tượng Quan Thánh còn ghi linh miếu.
Trang 339
Chén quỳnh-tương gác điều gai ngạnh,
Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ.
Khi thừa-nhàn trổi giọng ngâm thơ,
Bày thi phú than qua thời-thế.
Xuống dương-gian thân Điên nào nệ,
Chốn hồng-trần đuốc huệ liền khai.
Cho nam-nhi sửa mặt râu mày,
Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt.
Rán bắt chước những trang tuấn-kiệt,
Gái anh-hùng xưa có Trưng-Vương.
Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương, (1)
Rửa xong hận thù chồng dốc trả.
Xưa Châu-Xáng thanh-long phải tá,
Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên.
Nói cho đời rõ biết Khùng-Điên,
Điên vận bĩ điên câu ái-quốc.
Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc,
Đem Đạo lành ban rải nơi nơi.
Mảng chờ trông bá-tánh thảnh-thơi,
Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo.
Rừng bác-ái điên đời biến-ảo,
Điên như ta vì Đạo vì dân.
Điên tu cầu Quân thánh rải ân,
Cho bốn biển dân lành được hưởng.
Điên dẹp gác âm-thinh sắc-tướng,
Tầm vô-vi kiếm cảnh Niết-Bàn.
( 1 ) Câu nầy sau lại Đức Thầy có sửa như vầy :
Đến đời nay còn phụng lửa hương.
Trang 340
Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang,
Qua Đông-độ vớt người hữu đức.
Bể ái-hà gươm linh sớm dứt,
Lòng bồ-đề sắt đá dám kình.
Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
Noi chí ấy sửa-sang thời-thế.
Trời quá buổi chinh-chinh vừa xế,
Chờ ít lâu cũng lặn về Tây.
Lúc huỳnh-hôn đèn trí soi đầy,
Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc.
Điên đàm-luận ít câu dốt nát,
Mong chị anh bàn-bạc thể-nào ?
Lời văn thô ý-kiến chẳng cao,
Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật.
Đường đạo-đức bước đi từ nấc,
Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình.
Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh,
Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt.
Chúng-sanh mê nên đem pháp-thuyết,
Giải-thoát rồi pháp bất khả dùng.
Nương gia-đình kính trọng cội thung,
Lo nưng-đỡ trong ngày tuổi hạc.
Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác,
Chén rượu nồng chẳng nếm mà say.
Say lê-mê lết-mết tối ngày,
Say đạo-pháp say mùi hương khói.
Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi,
Bể ái-hà rứt bỏ vẹn lau.
Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào,
Trần-Di ngủ say câu thành-tựu.
Trang 341
Quyết đưa chúng về nơi non Thứu,
Tạo Lư-bồng ngõ hội quần Tiên.
Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền,
Câu không ngạnh chớ non phụng gáy.
Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái,
Quyết đưa người khỏi bến sông mê.
Nên phải đành mang lốt làm hề,
Mặc bá-tánh khen chê cũng phải.
Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại,
Dốc làm sao rõ mặt tang-bồng.
Nghiêng hai vai gánh nặng non-sông,
Vớt trăm họ lầm-than bể khổ.
Ví như loại sanh-cầm hồ thố,
Còn thương nhau lại huống chi người.
Đứa hai lòng sao chẳng hổ-ngươi,
Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ.
Dấu bút tích tuôn bay theo gió,
Học sách chi phỉ báng ông cha.
Thấy dân tình xem Giảng ngâm-nga,
Lão xót dạ đôi lời trần-tố.
Đức Khổng-Thánh người sanh nước Lỗ,
Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ.
Sá chi lời đạo-chích tục thô,
Kẻ ngu xuẩn khi người nhân-đức.
Danh hiền-sĩ non sông náo-nức,
Giả như hồi Chiến-Quốc Xuân-Thu.
Thầy Mạnh ra dùng đạo châu-du,
Lúc thập bát chư-hầu rối loạn.
Bực Thánh-nhơn công-lao chẳng chán,
Huống chi ta nào dám than-van.
Trang 342
Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng,
Nên tỏ ý khắp nơi đặng biết.
Coi ai có chứa bầu nhiệt huyết,
Dùng Đạo mầu cứu vớt sanh-linh.
Nếu để chờ sấm nổ vang thinh,
E bá-tánh ăn-năn đã muộn.
Giảng với kệ ra đà bốn cuốn,
Ít có người khám rõ cơ-huyền.
Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên,
Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng.
Đêm dài-dặn cạn dầu tim lụn,
Chẳng thấy ai tìm kiếm bóng trăng.
Để làm cho mích bụng chị Hằng,
Nơi cung nguyệt chờ trông mõn dạ.
Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná,
Hiếm bao người được cá quên nôm.
Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm,
Chẳng thèm kể cha hiền trông đợi.
Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi,
Nỡ phụ-phàng vua Tống-Khâm-Tôn.
Xem truyện xưa mà bắt hết hồn,
Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ.
Gã Tần-Cối ít ai còn lạ,
Dụng mưu thần giết thác Nhạc-Phi.
Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ,
Dám thiết kế hại tôi lương-đống.
Thuở Hiến-Đế có nhà họ Đổng,
Cũng chuyên-quyền muốn tiếm giang-san.
Nhờ Tư-Đồ thiết-lập Liên-hoàn,
Nghiệp nhà Hớn mới an một lúc.
Trang 343
Cảnh gian-nan như Lưu-Hoàng-Thúc,
Qua ở nhờ Viên-Thiệu dung thân.
Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa-ân,
Vượt năm ải về thăm huynh-trưởng.
Kẻ nghĩa-khí thiên kim vạn lượng,
Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen.
Xem tích xưa thẹn với bóng đèn,
Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa.
Coi sự sống như Tiên nưa-nửa,
Mê mồi thơm như cá lục-châu.
Sao chẳng lo thức-tỉnh quày đầu,
Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ.
Cấp-Cô-Độc là nhà bá hộ,
Còn đành lòng bố-thí xả thân.
Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần,
Miễn hiểu đạo hơn là châu-báu.
Chẳng sớm lo chần-chờ sợ Lão,
E sau nầy tâm-não đoạn-trường.
Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương,
Trời đất xử những người bội phản.
Phải chỗi dậy nương dây hùng-tráng,
Chữ đại-hùng đại-lực từ-bi.
Vậy mới trang quân-tử nam-nhi,
Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.
Đời cũng lắm bao người giá áo,
Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm.
Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
Quyết kiếm thế đặng toan lừa-dối.
Ngọn bút sắt chỉ đưng người tối,
Gậy kim-cang đưa chúng lên đàng.
Trang 344
Kíp nương theo trực chỉ Tây-phang,
Đến Cực-lạc tìm nơi an-dưỡng.
Dẹp cầy cáo dùng cây thiền-trượng,
Lánh ta-bà cõi thế đua chen.
Được vinh-hoa khinh-bỉ kẻ hèn,
Bạn phản bạn như ngươi Bùi-Kiệm.
Trên mặt đất hạng người ấy hiếm,
Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng.
Nhìn Trịnh-Hâm Lão bắt mủi lòng,
Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh.
Viết ít câu cho đời ngâm vịnh,
Phận tài sơ xin hãy thứ tha.
Yêu nhơn-sanh trổi giọng hùng ca,
Tạm nghiên bút vẽ tranh thế tạo.
Trong bá tánh nhìn xem châu-đáo,
Chớ vội-vàng chê Lão ngu-si.
Rạch lang-tâm những đứa vô-nghì,
Nhắc sơ tích người xưa trong sử.
Khuyên bá-tánh vạn dân gìn-giữ,
Lão chúc cầu thiên-hạ thái-bình.
Đứng trung cang hành thiện truy kinh,
Mong trên dưới cùng nhau thảo-thuận.
Đã thấy lộ cơ trời báo ứng,
Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên.
Nợ hồng-trần túc-trái tiền-khiên,
Ta quyết dẹp cứu nàn dương-thế.
Noi chí đức Hoàng Thang luật chế,
Đời không hay những việc xa vời.
Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi,
Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón.
Trang 345
Cảnh thế-tạo càng ngày thỏn-mỏn,
Giống vi-trùng thường đục phổi tim.
Đến cơn đau phương thuốc phải tìm,
Gặp Biển-Thước, Hoa-Đà lai thế.
Kim với cổ nhìn xem thế-hệ,
Sợ có ngày hoạch tội ư thiên.
Nẻo đục trong cạn tỏ cơ-huyền,
Mực đã cạn lòng yêu chẳng mãn.
Ai coi qua xin đừng bỏ lảng,
Gắng công-trình vạch lá tìm sâu.
Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu,
Phải sớm hứng giọt sương Đông-hạ.
Điên nhơn-nghĩa điên vì Đạo cả,
Thôi chào đời khép cửa buồn duyên.
Có thiện-căn sớm lại cửa thiền,
Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc.
Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát. Hòa-Hảo, ngày 10-4 năm Canh-Thìn
SA-ĐéC
( Rằm tháng tư năm Canh-Thìn )
Nhìn cuộc thế bộn-bề sóng dậy,
Cửa thiền-môn còn hỡi khóa then.
Nương xứ xa tạm viết với đèn,
Tỏ tâm sự của người liễu Đạo.
Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu-thảo noi gương.
Trang 346
Ấy chẳng qua là đạo luân thường,
Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dặm.
Non tuyết sang rú-rừng thăm-thẳm,
Đem thân phàm tầm đạo siêu-sanh.
Đến ngày nay còn rạng lấy danh,
Khắp bốn biển dân lành sùng bái.
Muốn lập Đạo có câu thành bại,
Sự truân-chuyên của khách thiền-môn.
Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
Ta chịu khổ, khổ cho bá-tánh.
Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,
Chạm lợi quyền giàu có cạnh-tranh.
Bước gai chông đường đủ sỏi-sành,
Đành tách gót lìa quê hương dã.
Ta cũng chẳng lấy chi buồn-bã,
Bởi sự thường của bực siêu-nhơn.
Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát.
Cơn dông-tố mịt-mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của đấng từ-bi.
Vì Thiên-đình chưa mở hội thi,
Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng.
Kẻ ác đức cho rằng nói túng,
Nó đâu ng lòng Lão yêu đương.
Xe rồ xăng vụt chạy bải-bươn,
Đến khuất dạng tình thương náo-nức.
Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức,
Bởi nạn-tai vừa mới vấn-vương.
Chốn liên-đài bát-ngát mùi hương,
Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức.
Trang 347
Dạy con cả nào đâu than cực,
Tiếng làm Thầy phải nặng đôi vai.
Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài,
Ấy cũng bởi thày-lay ông Tạo.
Ông nhồi quả cho người hành Đạo,
Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng ?
Nếu bền lòng vị quả cao thăng,
Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật-Thánh.
Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh,
Phải bền lòng mới rảnh trần-ai.
Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài,
Khó gặp chữ không không mà có.
Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ,
Rồi ngẩn-ngơ bỏ giống hay sao ?
Nấu lọc rành mới biết vàng thau,
Ai thật tánh ai người giả đạo.
Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo,
Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han.
Nay thân Thầy cũng đặng bình-an,
Khuyên bổn-đạo đừng than lắm tiếng.
Tuy xa đường có lời luận-biện,
Bởi bút thần bay luyện khắp nơi.
Ngọc nhờ lau ngọc mới rạng ngời,
Kim mài giũa kim kia mới bén.
Người làm phải như tằm trong kén,
Có muôn tơ bao bọc ấm thân.
Sách có câu Minh đức tân dân,
Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu.
Ta còn thương, thương trò liệu-điệu,
Chớ cũng mừng được dịp phổ-thông.
Trang 348
Đắc Đạo rồi cứu vớt Tổ-Tông,
Cũng như Phật xuất gia thuở trước.
Các bực Thánh châu-lưu nhiều nước,
Nghèo thầy Nhan bầu nước đai cơm.
Tuy cơ-hàn mà được danh thơm,
Hơn phú-quí ngồi ôm bả lợi.
Quá sung-sướng rồi quên đạo ngỡi,
Thì khác chi loại thú rừng săng.
Vật hổ-lang đâu biết đạo hằng,
Chỉ có biết ngủ ăn, ăn ngủ.
Khi đói mồi mặt mày sù-sụ,
Chạy quơ quào vật nhỏ đặng ăn.
Đến chết thây đầy lũ ruồi lằn,
Bu nút thịt của loài bạo ác.
Đạo mà biết mùi thơm bát-ngát,
Rứt bụi trần mặn lạt thây ai.
Chữ Nam-mô trì giái giữ chay,
Chay được tánh chay tâm mới quí.
Trong Đạo Phật quá nên huyền-bí,
Chỗ tâm-thần tọa vị nơi thân.
Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần,
Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh.
Đuốc thiền-lâm phương Đông chói ánh,
Dắt hồn người vượt khỏi sông-mê.
Dầu cho nay xa cách Sở, Tề,
Sau Thầy tớ gặp nhau Phật-cảnh.
Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
Đồng bay về Cực-Lạc một đàng.
Thì thân Thầy hết phải gian-nan,
Đâu có chịu mang câu nhạo báng.
Trang 349
Nói thì nói chờ ngày thấp-thoáng,
Dòm êm trời thì cứ ra tay.
Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng-Lai,
Mới ngơi-nghỉ tấm thân của Lão.
Lúc Tam-Tạng Tây-phương quyết đáo,
Bị loài yêu làm bạo lắm phen.
Đức từ-bi phải lộ trắng đen,
Lôi-Âm tự cũng đi đến chốn.
Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn,
Thấy Đường-Tăng thơm thịt muốn ăn.
Nhờ môn-đồ Bát-Giái, Sa-Tăng,
Với Đại-Thánh Tề-Thiên cứu vớt.
Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt,
Thì nạn tai cũng thoát như không.
Khó tìm cho gặp chủ-nhơn-ông,
Còn ẩn ánh nơi vòng sanh-chúng.
Ai mê tâm nghe qua không phủng,
Rán suy tầm đặng mở tánh linh.
Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều kinh,
Thì cũng thấy bổn lai diện mục.
Lần thứ chót gọi lời kêu thúc,
Thầy nhắc cho bổn-đạo rõ lòng.
Chừng Ơn Trên ban được Lục-Thông,
Thầy mới được Tây, Đông du-thuyết.
Thâu cho được con long ác-nghiệt,
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.
Chúng-sanh nên tầm quạt ba-tiêu,
Chữa hỏa-diệm nơi tâm cho tắt.
Thì đạo-hạnh ngày kia mới đắc,
Chớ chứa hờn đứa dữ ích chi.
Trang 350
Phận tu-hành tai gác mặt lỳ,
Chịu cay đắng của người sang-sớt.
Lòng sầu riêng hãy nên nguôi bớt,
Đừng thở-than bận đến lòng Ta.
Để cho Thầy đi dạo ta-bà,
Đặng dạy kẻ đưng xa chưa rõ.
Nay rừng bụi có người mở ngõ,
Thì noi theo dấu thỏ đàng dê.
Giục vó cu nhiều nỗi thảm-thê,
Dạy sanh-chúng cho rồi mới rảnh.
Cũng hiếm kẻ nghinh-ngang cường ngạnh,
Ôi ! kể sao cho hết thói đời !
Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi,
Nên kiếp kiếp, đời đời lên xuống.
Suối Tiên thanh đổ ra cuồn-cuộn,
Tràn ruộng lòng gieo giống mới nên.
Kẻ vô-tình chẳng có chí bền,
Phải sa-ngã theo nơi mộng-ảo.
Giấc mộng vàng đặng truyền đại-đạo,
Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê.
Mùa nước tràn ngập cả điền đê,
Đến nước hạ đồng khô cỏ cháy.
Cuộc gian-nan năm qua đã thấy,
Luận việc đời cũng khúc lớn ròng.
Khi dậy thì tràn cả bờ sông,
Lúc khô hạn đi đồng khao-khát.
Biết làm sao lên lưng bạch hạc,
Bay cả trời tỏ ý từ-bi.
Khắp thế-gian con thảo phục quì,
Chầu trước bệ cha hiền Ngọc-Đế.
Trang 351
Gẫm vinh-nhục sanh trong thế-hệ,
Tuồng xưa kia sắp đặt đã lâu.
Phải chuyển-xây trái đất một bầu,
Đặng lừa-lọc con Tiên cháu Phật.
Gồm một nơi sửa-sang tiêm-tất,
Xử phân người cùng vật thưởng phong.
Cho dương-trần rõ luật Thiên-công,
Có Địa-ngục Thiên-đường hay chẳng.
Các chúng-sanh nghe rồi yên-lặng,
Suy cho tường rồi sẽ biện-minh.
Cơn vui tai từ tạ Thiên-Đình,
Cho phép Lão tố-trần đôi lẽ.
Lời Thầy dạy thật là cặn-kẽ,
Bao nhiêu tình bác-ái góp tom.
Trông bá-gia tìm Đạo quá mòm,
Thôi giã thế ước-mong đời thạnh.
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
Sa-Đéc, đêm rằm tháng 4 Canh-Thìn
( Đức Thầy viết bài nầy trước mặt một số đông người, trong đó có vài phần-tử muốn thử coi sau khi bị dời khỏi quê-quán Ngài còn đủ tinh-thần chăng ).
Trang 352
ĐẾN LÀNG NHƠN-NGHĨA (Cần-Thơ)
Vui mừng gặp chốn hiền-lương,
Dốc lòng mở cửa Phật-đưng độ dân.
Làng Nhơn-Nghĩa đ chân đến chốn,
Thấy dương-trần trà-trộn tà tâm.
Oai Thần đem đạo huyền-thâm,
Nhiệm-mầu phổ-độ âm-thầm ai hay.
Mẹo đã hết, rồng bay vơ-vẩn,
Khắp hoàn-cầu nghịch lẫn cùng nhau.
Lê-dân trăm họ xáo-xào,
Rã-ri phụ-tử, máu đào nhuộm tuôn.
Thương quá sức bắt cuồng tâm não,
Quyết cứu người dùng Đạo phổ-thông.
Ước-mơ cho được đại-đồng,
Tràn-trề khắp cả, Lạc-Hồng thảnh-thơi.
Nhìn vạn-vật cuộc đời ngao-ngán,
Bởi hoàn-cầu thù oán cứ gây.
Vẽ hình rồi lại vẽ mây,
Vẽ tranh Thiên-tạo Bồng-Lai cảnh tình.
Lại thêm vẽ phù-sanh cõi tạm,
Dắt hồn người hắc-ám khỏi mang.
Cầu cho cuối xóm cùng làng,
Trẻ già lớn nhỏ Phật-đàng yên thân.
THI
Luân-thường nặng nợ phải vai mang,
Nhuần gội thừa ân của Phật-đàng.
Cố-gắng tâm trì theo đến chốn,
Một ngày vinh-diệu ắt bằng-an.
*
* *
Bằng an bốn biển khỏi đua tranh,
Bởi khắp bá-gia được chí lành.
Trau sửa tâm phàm tìm cội cũ,
Về nơi Tiên cảnh mới nhàn thanh
Trang 353
Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm.
Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ,
Non Thần biến đổi hết rừng lâm.
*
* *
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài.
Chờ đợi con hiền noi tục cổ,
Tới thời thượng-cổ điểu hòa mai
*
* *
Võ-võ đêm thanh nức giọng vàng,
King cây sum MẬU đượm mùi nhang.
Phù-dung rã gánh thân yên nhã,
THạNH thới gia trung gặp chữ nhàn.
*
* *
Chữ nhàn vô sự mới nên Tiên,
Bát-nhã từ đây gặp cửa thiền.
Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi,
Lánh đời tục-lụy rứt tiền-khiên.
*
* *
Tiền-khiên kiếp tạo bởi trần thân,
Đạo diệu giồi-trau lập chí cần.
Luyện tánh, trau tâm cho sạch-sẽ,
Rứt rồi nợ thế khỏi ưu-phiền.
*
* *
Ưu-phiền thưng sự chốn ta-bà,
Phật-cảnh mau về ¡t lánh xa.
Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
Phủi trần tìm kiếm chữ ma-ha.
Ma-ha mùi ngọt mật cùng đa !
Cảnh thế nhìn xem lũ cáo-xà.
Múa gút nhăn nanh ưa thịt béo,
Nào khờn dạ ái của thiền-gia.
*
* *
Thiền-gia chí cả dốc hành thân,
Diệu diệu truyền thi cảm kích thần.
Những tưởng thói đời ôi chát lạt !
Đạo mầu siêu-việt của thiền-lâm.
*
* *
Thiền-lâm Phật Thích thuở xưa kia,
Non tuyết rèn ra bát-chánh kìa.
Phổ-hóa dân lành trong khắp chúng,
Hoàn-cầu bốn biển khắp danh bia.
( Mấy bài tứ cú trên đây Đức Thầy trao cho ông Võ-Mậu-Thạnh ở làng Nhơn-Nghĩa ).
Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp,
Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa.
Phật, Tiên vận-chuyển lọc-lừa,
Kiếm con hữu phước mà đưa trở về.
Ôi ! khổ thảm bốn bề sóng dậy,
Dòm lừng trời lửa cháy liên-miên.
Tiêu-điều sản-vật điền viên,
Thần-thông biến hóa dưới miền Trung-Ương.
Ngục-môn đầy quỉ vô-thường,
Dắt hồn kẻ bạo Diêm-Vương luật trừng.
Nhìn xa nước mắt rưng-rưng,
Thương đời mê-muội trầm-luân hoài-hoài.
Trang 355
Tay hạ bút viết bài chung cuộc,
Ai rõ lòng con cuốc khỏi kêu.
Thân khùng vận bĩ trớ-trêu,
Phiêu-lưu trôi giạt danh nêu khắp cùng.
Ai giàu có thung-dung thanh nhã,
Ta lo đời sắt đá bền gan.
Âu sầu nức giọng riêng than,
Trách dân chẳng sợ hùm lang cứ gần.
Nhơn-Nghĩa ( Xà-No ), ngày 29 tháng 4 Canh-Thìn
*
Ông NGUYỄN-THANH-TÂN (đến Xà-No
thăm Đức Thầy) xướng :
Cách mấy tuần dư đã vắng lâu,
Mái tây đứng xủ tóc phai màu.
Tin thơ mới đặng thông lời ngọc,
Ngòi bút khôn dằn ứa hột châu.
Khắc lụn bâng-khuâng nơi cửa Khổng,
Canh tàn thỏ-thẻ chốn thang lầu.
Ngàn trùng nước bích xa xuôi đấy,
Cúi kính lời quê gợi mạch sầu.
ĐỨC THẦY họa :
Xuống trần dạy-dỗ cũng đà lâu,
Sẵn dịp lìa quê rải Đạo mầu.
Thong-thả trau-tria đời lựa ngọc,
Thảnh-thơi chùi rửa khắp tim châu.
Trung-dung khuyên đó noi gương Khổng,
Hiếu-hạnh dạy con chớ mến lầu.
Trang 356
Tuyệt đích siêu mầu nơi kệ đấy,
Phàm-nhơn sớm vội gác cơn sầu.
Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng :
Đạo-đức bủa ra khắp cõi trần,
Ơn Thầy phổ-hóa nặng ngàn cân.
Ngậm vành mong trả ghi muôn thuở,
Nhả ngọc lâm đền nguyện một thân.
Xủ-xếp lũ bàng còn đợi gió,
U-ơ bầy bướm hỡi chờ xuân.
Hội lành rồng gặp cơn mưa-móc,
Chi để nho-văn khói lửa Tần.
ĐỨC THẦY họa và cho thêm :
Thương tưởng người mê Lão xuống trần,
Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh-Cân.
Lòng yêu sanh-chúng luân chuyển kiếp,
Dạ ái dương-trần đổi sắc thân.
Lèo-lái sẵn rồi còn ngược gió,
Cánh trương chưa gặp cuộc phù-vân.
Sang hè con cuốc sầu mưa-móc,
Đoái thấy đời nay học thói Tần.
*
* *
Vạn-lý trưng-thành khí khẩu chương,
Thanh phong tiết-hạnh dĩ luân-thường.
Dị-nhân tái-thế từ-bi thuyết,
Đào tị long xà thoát họa-ương.
*
* *
Trang 357
Dặn lòng lục-tự mựa đừng sai,
Qua bờ về quê ngõ chuốc hài.
Tiên-cảnh kìa kìa gần lộ vẻ,
Chờ người hữu phước đến liên-đài.
*
* *
Tỏ lời thăm viếng khắp đâu đâu,
Bổn-đạo từ nay gác mộng sầu.
Vọng bái Thánh Thần đền lộc cả,
Trọng quyền chỉ bảo khắp đâu đâu.
*
* *
Đâu đâu cũng mến tới mà tu,
Ngàn dậm xa-xuôi biệt tít mù.
Công-cán thăm Thầy không nại khổ,
Việc đời lắm kẻ quá là ngu.
*
* *
Lập thân hành Đạo phải truân-chuyên,
Cứu thế Thầy đâu mến bạc tiền.
Dặn lòng con hãy bền gan dạ,
Sẵn dịp dân lành rõ Phật Tiên.
*
* *
Phật Tiên thương hết cả nhơn-sanh,
Tu tỉnh trì tâm đạo rán hành.
Chớ lấy sự sầu gieo não trí,
Để Thầy an-ổn dẫn quần-sanh.
*
* *
Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời,
Một bầu nhiệt huyết chẳng xe lơi.
Trang 358
Mến yêu quốc thủy tình đồng chủng,
Phải tính cho xong nỗi cuộc đời.
*
Xà-No, tháng 6 năm Canh-Thìn
Cho ông Chín Diệm tức NGUYỄN
KỲ-TRÂN ở làng Định-Yên (Long-Xuyên)
Đường xa ngàn dặm cụ sang thăm,
Nghe Đạo huyền-vi cảm-kích thầm.
Cố tưởng ước mơ đời thạnh-trị,
Gạn tầm hoài-vọng điệu xa-xăm.
Nòi giống Lạc-Hồng nay nẩy-nở,
Nam-bang vui thú buổi đồng tâm.
Ông ơi, hãy rán tìm chơn-lý,
Khác thế Thần Tiên thấm nhạc âm.
*
* *
Nhạc âm Châu-Võ cuộc Phong-Thần,
Tảo Bắc chinh Nam ái nước dân.
Treo sợi xích-thằng chờ vận đến,
Cột dây ngọc-đái đợi người ân.
Thiên-công lắt-lẻo sao lâu quá,
Địa-phủ trớ-trêu lấp mắt trần.
Tông-Tổ mở-mang nhờ đức cả,
Giống dòng no ấm bớt trần thân.
*
* *
Đường xa diệu vợi cảm tình ông,
Vậy mới nở-nang giống Lạc-Hồng.
Noi chí Thánh-Hiền tìm cội cũ,
Theo gương Phật-Tổ thấy non sông.
Trang 359
Hồ thiên ngọc ẩn chờ qui kiểng,
Trì địa kim sơn đến cõi Bồng.
Hãy rán sưu-tầm cho rạch lý,
Một ngày hòa-hiệp hết còn mong.
*
* *
Còn mong cho gặp hội Mây Rồng,
Sắp đến bước đường lắm nẻo chông.
Quân-tử tùy thời hơi sút bước,
Tiểu-nhơn ỷ sức mạnh pha xông.
Khốn thay dân sự người cao thấp,
Đau đớn thân hèn kẻ tiếc công.
Dạ luống ai hoài than-thở chút,
Lòng lo dương-thế bắt cuồng ngông.
*
* *
Cuồng ngông cửa Phật quá thêm nồng,
Thấy chúng đời nầy những ước mong.
Trời định nhơn-tâm qui nhứt thống,
Đất xoay vật dụng một nền không.
Diệu-thâm bát-chánh lời truyền giáo,
Xa thẳm tứ-đề tiếng giục ông.
Bớ hỡi Lạc-Hồng mau lượng xét,
Để chừng phong võ hết chờ trông.
Xà-No, năm Canh-Thìn
BÁC-ÁI ĐạI-ĐỒNG
Nhơn-dân bá-tánh cũng con lành,
Thầy dạy cho đều kh¡p chúng-sanh.
May-mắn vận thời đưa đến chốn,
Tiền-khiên dẹp gác kiếm con lành.
*
* *
Trang 360
Nhắn cùng bổn-đạo khắp đâu đâu,
Vạn-vật từ nay luống thảm sầu.
Áo-não thương đời đa đói khổ,
U-buồn trăm họ vẽ vài câu.
Xà-No, tháng 4 năm Canh-Thìn
*
NHẮN NHỦ CÙNG AI
Nhắn-nhủ cùng ai một ít lời,
Nhờ ơn đưa đẩy tới nhiều nơi (1).
Ghét vơ sĩ khó trau lời hạnh,
Hạnh-phúc hiền-lương tiếng nức trời.
*
* *
Nức trời cảm-động cảnh trầm-luân,
Đừng để tim gan lửa nó lừng.
Hỏa-diệm mảng chờ cây quạt phép,
Tâm trần siêu-việt kiến thời hưng.
*
* *
Thi hưng Trời Đất tảo-trừng gian,
Ủa, ủa thì ra rất muộn-màng.
Vui thẩm Tiên Bồng nơi thỏa hiệp,
Hoàn-cầu sanh-chúng khỏi lầm than.
Xà-No, tháng 4 năm Canh-Thìn
*
( 1 ) Nhà chức-trách di Đức Thầy từ Hòa-Hảo đến Sa-Đéc rồi qua Nhơn-Nghĩa ( Cần-Thơ )
Trang 361
GIẤY VÀNG
Giấy vàng nay đã giá cao thăng,
Bìa trắng lại chê vội bỏ lăn.
Thương thảm chúng quăng nằm kẹt hóc,
Chủ nhà quét tước lượm lăng-xăng.
Xà-No, tháng tư năm Canh-Thìn
( Thấy quý ông Năm Hiệu, Năm Chơn, biện Hùm xé giấy vàng mà bỏ bìa trắng nên Đức Thầy tức cảnh làm bài thơ trên đây. Trước khi làm thơ, Ngài cười nói rằng : Trắng hay vàng uống cũng được. Giấy mắt lắm, tại sao mấy ông xé bỏ ?).
*
Cho HƯƠNG-BỘ THạNH
HƯƠNG đăng thơm nức quá nhẹ-nhàng,
BỘ đi còn kẹt nỗi hùm lang.
THẠNH thay thời-sự đưa Khùng đến,
Đạo-đức bày ra bủa khắp làng.
*
* *
Hương-bộ mang soi bận áo dà,
Đêm ngày tiếp rước khách gần xa.
Nhơn-dân bá-tánh đều trông thấy,
Hương-bộ mang soi bận áo dà.
*
* *
Áo dà Hương-bộ bận mang soi,
Ai có tức cười hãy đến coi.
Dòm riết chú chàng vùng mắc-cỡ,
Áo dà Hương-bộ bận mang soi.
Trang 362
Võ nghệ ngày xưa của nước nhà,
MẬU truyền nên chẳng kiếm cho ra.
Luyện tập đ dành khi đến việc,
THẠNH thi mới được hưởng vinh-hoa.
*
* *
Vinh-hoa cũng phải rán công-phu,
Tìm kiếm mà coi sấu hóa cù.
Kiếp trước ông cha làm đức cả,
Ngày sau con cháu rán lo tu.
*
* *
Võng dù sao chẳng rán mà tu,
Gặp đặng người xưa phước bổ bù.
Bởi trước giữ-gìn nền đạo-đức,
Bảng vàng chói rạng chẳng hề lu.
*
* *
HƯƠNG đèn cầu-nguyện với ông cha,
BỘ đạo tìm ra nẻo chánh tà.
NHƠN ái giữ nền noi lối cũ,
NGHĨA hòa huynh-đệ phụng tông-gia.
*
* *
Rày mừng gặp đặng lúc ban ân,
Duyên trước ngày nay mới có phần.
Hãy rán dặn lòng lo trung-hiếu,
Đến chừng gặp hội có Tiên, Thần.
*
* *
Mùi hương phưởng-phất ghẹo cùng đi,
Công-tử sang giàu tiếp cuộc chơi
Trang 363
Trải mặt phong-trần tìm món lạ,
Nào dè thâm-nhiễm tổn hao hơi.
Bo-bo ngày tối lo nồi ống,
Chặt-chịa hằng đêm đổi tiếng lời.
Những mảng ham vui mang bịnh nghiệt,
Gầy mòn thân thể vội buồn ngơi.
*
* *
Chán bịnh hiểm-nghèo cậy Phật Tiên,
Tâm thành phù-hộ hết nạn ghiền. (1)
Dưỡng thân đạo-đức giồi linh-trí,
An thể hiền tu ắt được nguyên.
Chặt dạ tinh-thần thêm mập khá,
Bền lòng khí-lực tráng nguơn nhiên.
Dẹp mâm, dẹp chiếu cho tiêu tán,
Theo dõi Bồng-Lai lánh cõi thiềng.
Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn
THÂN GÀ (thơ xưa)
Chắt-chiu trong trứng mới nở ra,
Diều đâu bay lại xớt con gà.
Mẹ kêu túc-túc xè cánh đuổi,
Chủ nhà tiếc của vỗ tay la.
*
* *
(1) Ông Hương-bộ Thạnh trước kia ghiền á-phiện rất nặng,
(2) sau nhờ Đức Thầy dùng huyền diệu làm cho bỏ được bịnh nầy.
Trang 364
ĐỨC THẦY họa :
Nịnh gian hai dạ chuyện sanh ra,
Dòm ngó càng thương-hại lũ gà.
Trở mặt dòm trời cao tuốt mịt,
Ức lòng thiếu cánh chớ nên la.
Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn
VIẾNG ĐÊM
( Bài nầy là của nội-tổ ông Hương-bộ Thạnh )
Trắng thời chịu vẻ ngọt là nêm,
Vui dạ chi bằng đọc sách đêm.
Học đủ ba dư trời chẳng phụ,
Đến ngày bẻ đặng quế cung Thềm.
ĐỨC THẦY họa :
Tình thương thăm viếng chật như nêm,
Tưởng nhớ lòng ta chớ ở đêm (1) .
Nhà nước khác chi người thiếu-phụ,
Ôi thôi ! chờ vận bước lên thềm.
*
* *
( 1 ) Lúc đó có nhiều anh em bổn-đạo ở Long-Điền (Long-Xuyên)
đến tại nhà ông Hương-bộ Thạnh để thăm Đức Thầy và muốn ở lại vài ngày.
Đức Thầy làm bài nầy để khuyên anh em về sớm.
Trang 365
Canh trưng dạ đoản, kiến canh sơ,
Phổ-hóa nhơn-sanh trực thế thờ.
Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp,
Cấp hồi Nam-Việt tác cuồng thơ.
*
* *
Thôn hành thế lữ ái nhi ca,
Cổ thụ huyền thi thiết nhĩ hà.
Đái bích Lư-Bồng thâm tải hận,
Đãi thì Thiên-định thiết phong xa.
Xà-No, ngày 24 tháng 5 năm Canh-Thìn
*
ƯỚC VỌNG NGƯỜI HIỀN
( Lúc Đức Thầy ở Rạch So-Đũa (Xà-No) có một nhóm nhân-sĩ đến viếng,